LUẬN VỀ BỐN TƯỚNG

Phật Thích Ca đem tất cả hiện tượng vũ trụ nhân sinh do nhất niệm vô minh cảm biết được (tôi gọi nó là vũ trụ tương đối) đều gọi là Tướng. Tướng tức là tương đối, là biến hóa, là hữu lậu (còn tập khí phiền não gọi là hữu lậu), là hữu hạn, là chẳng thật , do đó khiến chúng sanh mê vọng. Cả vũ trụ nhân sanh cho đến các phương pháp nhận thức luận đều là tương đối đều nên phủ định.
Trái lại, Phật Thích Ca đặt tên bản thể tuyệt đối cuối cùng gọi là Tánh. Tánh tức là Phật, cũng gọi là Tự Tánh, Chân Như, những danh từ này so với những danh từ trong triết học Tây phương như Lý tánh,Tánh chất, Tánh tình... ý nghĩa chẳng đồng.

Tánh của bản thể tuyệt đối này tức là tồn tại Chân thật, là Bất biến, là Vô lậu, là Vô hạn, là Chân thật, là Bổn lai như thế nên cũng gọi là Như Lai, là khẳng định tuyệt đối, tôi gọi nó là vũ trụ tuyệt đối.
Muốn đạt đến vũ trụ tuyệt đối trước tiên phải phủ định vũ trụ tương đối, muốn phủ định vũ trụ tương đối trước tiên phải tìm chủng tử tương đối của vô thỉ tức là cội nguồn của tương đối, đem chủng tử cuối cùng này phủ định rồi thì chẳng có gì để phủ định nữa liền tiến vào tuyệt đối.
Trong quá trình phát triển Đại thừa Phật pháp ở Ấn Độ có một phái chủ trương phát huy từ bản thể gọi là Tánh Tông, còn một phái khác chủ trương từ hiện tượng dẫn dắt vào bản thể gọi là Tướng Tông.
Kỳ thực, Phật pháp cuối cùng đạt đến vũ trụ tuyệt đối rồi thì bản thể và hiện tượng hợp một, tánh tướng bất nhị cho nên cái Tánh của bản thể tuyệt đối này Phật Thích Ca gọi nó là Thực Tướng, là chỉ rõ khi tiến vào tuyệt đối thì tướng cũng biến thành chân thực tuyệt đối vậy. Nhưng khi chưa nhập tuyệt đối, tướng tức là tương đối chẳng thật, muốn tiến vào bản thể tuyệt đối cần phải phủ định Tướng đạt đến “Không, Vô tướng, Vô tác” mới cho là được giải thoát bước đầu tiên.
Phật Thích Ca đem tất cả Tướng chia thành bốn loại tức là: Ngã Tướng, Nhơn Tướng, Chúng Sanh Tướng, Thọ Giả Tướng, gọi chung là Tứ tướng. Bốn tướng này đại diện cho tất cả hiện tượng của nhân sinh vũ trụ tương đối, có thể dùng để giải thích nội tâm của con người đối với vũ trụ vạn vật sở sanh đủ thứ sai lầm.
Ví như bốn tướng trong kinh Viên Giác(1) là chuyên dùng để chỉ rõ người tu hành nhận lầm bốn thứ cảnh giới nội tâm, bốn tướng trong kinh Kim Cang thì cũng cùng mục đích độ chúng sanh mà chỉ rõ ràng, chúng sanh vì chấp bốn tướng mà sanh khởi sai lầm; bốn tướng trong kinhLăng Già thì dùng để phê bình cái chấp trước do ngoại đạo sở kiến lập.
Bởi vì tất cả tư tưởng và hành vi của chúng sanh đều chẳng thể vượt qua phạm vi bốn tướng này, do đó muốn chúng sanh giác ngộ sự sai lầm của họ tốt nhất là dùng bốn tướng này để thỉết minh.
(1) Bốn tướng trong kinhViên Giác, Kim Cương và Lăng Già : Nói chung tả sự nhận lầm bốn thứ cảnh giới nội tâm. Bốn tướng có hai thứ :

1.Bốn tướng mê thức của phàm phu :
- Chấp nhận cái thân ngũ uẩn này là ta, gọi là Ngã tướng.
- Bỏ Ngã tướng chấp vào toàn nhân loại gọi là Nhân tướng.
- Bỏ nhân loại chấp vào toàn chúng sanh gọi là Chúng sanh tướng.
- Chấp có thời gian chân thật gọi là Thọ giả tướng.

2. Bốn tướng mê trí của bậc Thánh :

- Bậc Thánh tâm biết có sở chứng, dù chứng đến mức nào đều thuộc về Ngã tướng.
- Nay ngộ thêm một bậc, biết chẳng phải ta chứng, siêu việt tất cả chứng, nhưng còn cái tâm năng ngộ gọi là Nhân tướng.
- Nay tiến thêm một bậc nữa, liễu tri năng chứng, năng ngộ là Ngã tướng, nhân tướng, chỗ nãa tướng Nhân tướng thể đến chỉ còn tâm liễu tri, gọi làChúng sanh tướng. Rồi tiến thêm một bậc nữa, chiếu soi tâm liễu tri cũng bất khả đắc, chỉ một giác thể thanh tịnh, gọi là Cứu kính giác, tất cả tịch diệt, cũng gọi là Niết Bàn.
- Nếu còn trụ nơi Niết Bàn thì mạng căn chưa dứt, gọi là Thọ giả tướng.
Cái phương pháp của Phật Thích Ca này rất cao minh và có hệ thống ấy là vì Ngài đã đích thân tiến vào tuyệt đối, đã thấu rõ tất cả nội tâm và ngoại vật của nhân sanh vũ trụ, biết tất cả chúng sanh sở dĩ lầm vào lối tẻ, trầm luân biển khổ đều do chấp tướng cho nên mới đặt cái phương pháp này để phá vỡ nó.
Con người từ khi biết dùng bộ não và cảm giác để quan sát tất cả đã trải qua một quá trình lâu dài, ban sơ hướng bên ngoài quan sát tức là quan sát sự biến đổi của con người và cảnh giới thiên nhiên v.v... Kế đó, trở lại quan sát hoạt động tư tưởng, cảm giác thay đổi không chừng của bản thân bộ não, tức là quan sát cái công cụ mà bản thân dùng để quán sát đó. Công cụ này gọi là Tâm.
Khi chưa kiến tánh, tác dụng của bộ não là giả, thế giới vạn vật do bộ não quan sát được cũng là giả : Giả + Giả = Giả. Nếu theo đó tu hành thì kết quả vẫn là giả nên lao nhọc mà chẳng có công hiệu.
Khi đã kiến tánh thì bộ não là chân, thế giới vạn vật đều là chân : Chân + Chân = Chân. Một chân thì tất cả chân nên chẳng cần tu gọi là Vô tu, Vô chứng(1) ấy là chuyển thức thành trí, thế giới tương đối biến thành thế giới tuyệt đối.
(1) Vô tu vô chứng : Thể dụng của tự tánh cùng khắp không gian và thời gian, thần thông trí huệ vốn sẵn đầy đủ bằng như chư Phật. Ví như vàng thật ẩn trong quặng, quặng được bỏ tạp chất thì tự hiện vàng thật, cũng vậy, tâm được bỏ tập khí phiền não thì tự hiện thể dụng của tự tánh, chẳng do tu mới thành chẳng do chứng mới có nên gọi vô tu vô chứng.
Chúng ta muốn có sự đánh giá chính xác đối với Phật pháp thì chẳng nên xem theo chi tiết thế hệ mà phải thấu đạt trung tâm.Thế hệ của Phật mặc dù chia thành nhiều môn nhiều loại rất phức tạp, nhưng trung tâm tư tưởng của toàn thể hệ chính là PhậtTánh (tức là Tuyệt đối luận), còn những cái khác đều từ đó suy diễn mà ra như Tứ Thánh Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Sáu Ba La Mật, và Tam Giới Thân v.v... đều xuất phát từ trung tâm lý luận này vậy.
Học thỉết của Plato sở dĩ thành cội nguồn của Nhị nguyên luận là tại ông đem cảm giác với lý tánh phân chia cho là đúng, như vậy không những hoàn toàn khác biệt mà lại đối nghịch với nhau, do đó làm cho hai lý không cách nào dung thông được. Cái Nhị nguyên luận của ông ắt phải hiển hiện nơi đối lập của quan niệm và vật chất, tái hiện nơi đối lập của cảm giác và tư tưởng, lại hiện nơi đối lập của nhục thể với linh hồn nữa.
Ông đem chân lý với thực tại để trên phương diện lý tánh mà chẳng để trên phương diện cảm giác, lý ấy dù đúng nhưng cảm giác với lý tánh mặc dù phân chia thành khác biệt lại cũng cần phải nhất trí, nghĩa là hai cần phải khác suối mà đồng nguồn mới được.
Diệu lý của Phật thì chẳng có khuyết điểm kể trên, nó là rất viên mãn, rất nhất nguyên. Nó ban sơ phủ định cảm giác, cho cảm giác là hư vọng nên phủ định nó, nhưng cái cội nguồn hư vọng này chẳng phải lỗi của bản thân cảm giác mà do bị vô minh che khuất. Khi màn đen vô minh mở ra thì hư vọng tiêu diệt, lúc ấy cảm giác tức đồng với lý tánh nghĩa là với Phật tánh chẳng khác. Cho nên cảm giác với Phật tánh ban sơ mặc dù phân chia cuối cùng vẫn đồng một thể.
Cái cửa ải khó khăn của nhà triết học Hy Lạp và Tây phương ở nơi sau khi siêu việt cảnh giới nhập vào cảnh giới tư tưởng thuần túy rồi lại đọa trở lại trong gông cùm của cảnh giới cảm giác nữa.
Phật thì siêu việt hai cảnh giới này và đạt đến chỗ cảnh giới mà triết gia Tây phương chưa thể đến tức là cảnh giới Phật tánh vậy.
Cảnh giới này chẳng thể dùng tư tưởng suy lường, chẳng thể dùng ngôn ngữ văn tự diễn tả, cần phải thực chứng rồi mới biết được, sau khi chứng ngộ tất cả cảm giác tư tưởng đều không lìa Phật tánh, nên nói : “Duy có kẻ chứng với kẻ chứng mới biết được”.
Về cảnh giới biểu thị trong Kinh và Ngữ Lục Tổ Sư hoặc nói hoặc nín, kẻ chứng thì thấu hiểu rõ ràng, kẻ chưa chứng thì suy nghĩ mãi cũng không hiểu, cũng như phương pháp “niêm hoa thị chúng” của Phật và “hét, gậy, chửi mắng” của Tổ Sư đều vậy.
Có vô thỉ vô minh rồi mới có nhất niệm vô minh, cho nên vô thỉ vô minh với nhất niệm vô minh là tương đối, có niệm thứ nhất thì có niệm thứ nhì, có niệm thứ ba v.v... cho đến cái niệm vô cùng vô tận, nghĩa là tư tưởngtương đối sanh ra vô số tương đối. Cho nên tương đối là chẳng thể cùng tận, không có chỗ dứt, chẳng thể truy cứu như cái vòng tròn chẳng có đầu mối nên gọi là luân hồi.
Con người hễ sanh ra tức là tương đối, có da trắng, da đen, da vàng, da đỏ v.v... Do đó sanh khởi nhiều mâu thuẫn và phiền não, nghĩa là con người sanh ra thì phải chịu đựng cái vận mạng bi thảm vậy.


Theo Tổ Sư Thiền.