Con đường tiếp cận với đạo Phật

Có người thường xem tôn giáo là niềm tin vào một Đấng Thượng đế hay những vị thần linh và từ đó, họ cho rằng bất cứ tôn giáo nào chủ trương tin vào thần thánh, hay nói khác đi, có quan điểm hữu thần, mới thực sự là tôn giáo. Vì thế, các tôn giáo hữu thần thường cho đạo Phật là đạo vô thần, hay thậm chí không phải là tôn giáo. Họ xem đạo Phật như là khoa triết học hay tâm lý học vì đạo Phật không chủ trương tin vào thần linh hay Thượng đế. Đạo Phật không dựa trên một lý thuyết siêu hình hay giáo điều nào đó mà chỉ dựa trên một kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại - đó là sự đau khổ. Tư tưởng nền tảng của đạo Phật là qua việc suy tưởng, quán niệm và hiểu biết về kinh nghiệm khổ đau chung đó, loài người có thể vượt lên trên những ảo tưởng tâm lý đã tạo nên chính sự khổ đau của họ.

Đạo Phật có phải là một tôn giáo không?

Chúng ta thường dễ dãi nghĩ là mình đã hiểu biết về tôn giáo vì tôn giáo có ảnh hưởng rất sâu rộng trong đời sống văn hóa của chúng ta. Tuy nhiên, nhín chút thì giờ để quán niệm và suy tưởng về mục đích và mục tiêu thật sự của tôn giáo vẫn là điều hữu ích.
Từ "tôn giáo" hay "religion" có gốc từ tiếng La-tinh "religio" có nghĩa là "mối liên hệ", "sự nối kết" hay "sự kết hợp". Nó hàm ý về quan hệ giữa con người và một đối tượng thiêng liêng và ảnh hưởng bao trùm của quan hệ này trên toàn bộ nhân cách của người đó. Để trở thành một người thật sự "tôn giáo", bạn phải tìm cầu và thiết lập quan hệ với một đối tượng thiêng liêng, hay một thực tại tuyệt đối, dâng hiến đời mình và sống trọn vẹn với quan hệ đó cho đến lúc bạn đạt được sự hiểu biết tối thượng. Tất cả tôn giáo đều nói về "sự giải thoát" và "sự cứu rỗi". Những danh từ đại loại như thế nhằm truyền đạt ý nghĩa về sự tự do và giải thoát khỏi những mê lầm và ảo tưởng tâm lý, sự tự do tuyệt đối và viên mãn, sự hiểu biết toàn bộ về thực tại tuyệt đối. Trong đạo Phật, chúng ta gọi đó là giác ngộ.

TÌM HIỂU VỀ BẢN CHẤT CỦA SỰ KHỔ ĐAU

Đạo Phật là đạo suy tưởng và quán niệm về sự khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại. Trong đạo Phật, khổ đau không nhất thiết phải là một tấn thảm kịch lớn hay một nỗi bất hạnh khủng khiếp. Nó đơn giản chỉ là một cảm thức bất toại nguyện, không hạnh phúc, và thất vọng mà tất cả chúng ta đều cảm nhận nhiều lần trong cuộc đời. Khổ đau là kinh nghiệm chung của cả nam lẫn nữ, cả người giàu lẫn người nghèo. Dù chúng ta khác biệt về màu da và dân tộc, khổ đau vẫn là sợi dây chung ràng buộc chúng ta lại với nhau.
Vì thế trong đạo Phật, khổ đau được xem là một sự thật thánh thiện (Khổ Thánh đế). Nó không phải là sự thật tuyệt đối. Khi Đức Phật giảng dạy về khổ đau như một sự thật thánh thiện, Ngài không có ý muốn buộc chúng ta vào khổ đau và mù quáng tin vào đó như một sự thật tuyệt đối. Trái lại, Ngài dạy chúng ta dùng kinh nghiệm khổ đau như một chân lý thánh thiện để suy tưởng và quán niệm. Chúng ta quán tưởng: Khổ đau là gì? Thực chất của nó là gì? Tại sao ta đau khổ? Đau khổ về cái gì?
Hiểu biết được bản chất của khổ đau là một cái nhìn trí tuệ quan trọng. Với kinh nghiệm sống riêng của bạn, bây giờ bạn hãy thử suy nghĩ. Trong đời, bạn đã dành bao nhiêu thời gian để tránh né hoặc chạy trốn khỏi những điều phiền lòng hay những gì bạn chống ghét? Xã hội mà chúng ta đang sống đã bỏ ra biết bao công sức để đi tìm hạnh phúc và lạc thú ở đời và trốn tránh những điều khó chịu và những gì chúng ta không ưa thích? Chúng ta có thể cảm thấy hạnh phúc trong một khoảnh khắc nào đó, say mê miệt mài trong một khoảnh khắc nào đó, đạt được những điều mà chúng ta cho là không phải khổ đau, chẳng hạn như một tình cảm sôi nổi và hứng thú, một mối tình lãng mạn, một cuộc phiêu lưu kỳ thú, những khoái lạc về thân xác, ăn uống, nghe âm nhạc, hay nhiều thứ khác nữa. Nhưng thật ra, chúng ta làm tất cả những điều này chỉ là để trốn tránh và xua đuổi những nỗi sợ hãi, bất mãn, lo âu, và phiền muộn luôn là bóng ma lảng vảng trong tâm thức chưa giác ngộ của chúng ta. Ngày nào mà con người còn sống trong vô minh và không chịu cố gắng nhìn thẳng vào và tìm hiểu bản chất của khổ đau, con người sẽ tiếp tục bị ám ảnh và không ngừng lo âu và sợ hãi về chính cuộc sống của mình.
Để hiểu được khổ đau đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận thay vì tìm cách xua đuổi và chối bỏ nó, hay đổ lỗi cho người khác. Chúng ta sẽ nhận ra rằng khổ đau có nguyên nhân của nó, rằng nó tùy thuộc vào một số điều kiện nào đó - những điều kiện tâm lý do chúng ta tự tạo hay do nếp sống văn hóa và gia đình của chúng ta huân tập. Kinh nghiệm sống và quá trình huân tập nạy bắt đầu ngay từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ. Gia đình, tập thể, cộng đồng, trường học, tất cả những định chế này đã gieo trồng và nuôi dưỡng trong tâm chúng ta những định kiến, thiên kiến, và quan điểm - cả thiện lẫn bất thiện.
Giờ đây, nếu không thực sự nhìn thẳng vào những điều kiện tâm lý này, xem xét và tìm hiểu bản chất thực sự của chúng, dĩ nhiên chúng ta sẽ tiếp tục bị chúng sai khiến, chúng ta sẽ hiểu và diễn giải kinh nghiệm sống của mình qua những cái nhìn lệch lạc. Nhưng nếu xem xét và tìm hiểu chính bản chất của sự đau khổ, chúng ta sẽ bắt đầu làm quen với những tình cảm như nỗi kinh sợ, lòng khát khao, và sự ham muốn, và rồi chúng ta sẽ khám phá ra rằng bản chất thực sự của mình không phải là những dục vọng hay nỗi sợ hãi này. Bản chất thực sự của chúng ta là không tùy thuộc vào bất cứ điều kiện nào.

PHÁP HỮU VI, PHÁP VÔ VI, VÀ Ý THỨC CON NGƯỜI

Các tôn giáo thường lấy quan hệ giữa thế giới hữu vi (thế giới duyên sinh và hữu hạn) và thế giới vô vi (thế giới không bị giới hạn và chi phối bởi thời gian và những điều kiện vật chất, tâm thức) làm đối tượng chính. Điều này có nghĩa là nếu đi vào tận cốt lõi của bất cứ tôn giáo nào, bạn sẽ thấy là tất cả đều đặt trọng tâm vào điểm chấm dứt của cuộc sống, hay sự ngừng nghỉ của thế giới hữu vi. Sự chấm dứt của thế giới hữu vi cũng là điểm bắt đầu của sự chứng ngộ và hiểu biết về thế giới vô vi. Thuật ngữ đạo Phật có ghi: "Có pháp vô vi; và nếu không có pháp vô vi, thì cũng không có pháp hữu vi". Pháp hữu vi sinh và diệt trong pháp vô vi, và qua đó, chúng ta có thể thấy được quan hệ giữa thế giới hữu vi và thế giới vô vi. Đã sinh ra làm người, chúng ta phải chịu sự chi phối của những giới hạn và điều kiện của thế giới dựa trên giác quan. Sự ra đời của chúng ta có nghĩa là chúng ta thoát sinh từ thế giới vô vi và thị hiện dưới dạng một sắc thân riêng biệt và tùy thuộc vào nhiều điều kiện. Và có sắc thân con người này cũng có nghĩa là chúng ta có ý thức.
Ý thức luôn xác định quan hệ giữa chủ thể và khách thể; và trong đạo Phật, ý thức được xem là một chức năng phân biệt của tâm. Ngay bây giờ, bạn hãy suy nghĩ về điều này. Bạn đang ngồi đây và lắng nghe những lời này. Đây là kinh nghiệm của ý thức. Bạn có thể cảm nhận hơi nóng trong phòng, bạn có thể nhìn quang cảnh xung quanh, bạn có thể nghe những âm thanh. Tất cả điều này có nghĩa là bạn đã được sinh ra trong sắc thân con người và từ đây cho đến cuối đời, ngày nào mà sắc thân này còn sống, nó sẽ tiếp tục ghi nhận cảm thọ và ý thức sẽ tiếp tục sinh khởi. Ý thức luôn cho ta cái ấn tượng là có chủ thể và khách thể, thế nên khi chúng ta không chịu khó quan sát và tìm hiểu bản chất thật sự của sự vật, chúng ta sẽ bị kẹt trong cái nhìn nhị nguyên "Sắc thân này là của tôi, cảm thọ này là của tôi, ý thức này là của tôi".
Do đó, thái độ nhị nguyên sinh khởi từ ý thức. Và để rồi, với khả năng hiểu biết, ghi nhớ, và nhận thức của tâm, chúng ta xây dựng cho mình một cá tính hay nhân cách. Thỉnh thoảng chúng ta rất yêu thích và thú vị về nhân cách của mình. Nhưng đôi khi chúng ta lại sợ hãi một cách vô lý, có cái nhìn sai lệch, và lo âu về chính con người của mình.

ƯỚC VỌNG CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI


Trong tất cả xã hội có đời sống vật chất phát triển cao hiện nay, phần lớn các nỗi thống khổ và tuyệt vọng của con người đều bắt nguồn từ sự kiện là chúng ta - những con người hiện đại - thường không thể hướng đến với một cái gì cao hơn ngoài cái hành tinh mà chúng ta đang sống và ngoài sắc thân làm người này của chúng ta. Xã hội hiện đại không thật sự khuyến khích con người ước mơ và hướng về sự hiểu biết tối thượng hay quả vị giác ngộ. Ngược lại, hình như người ta thường ngăn cản mong ước đó.
Vì không liên hệ được với một sự thật cao hơn cuộc đời bình thường này, cuộc sống của chúng ta trở thành vô nghĩa. Nếu chúng ta không thể liên hệ được với một cái gì khác hơn ngoài những kinh nghiệm của một thân xác con người sống trên trái đất, trong cái vũ trụ đầy bí ẩn này, tất cả ý nghĩa của cuộc sống sẽ chỉ là để sinh ra rồi chết. Dĩ nhiên, câu hỏi kế tiếp sẽ là mục đích của cuộc sống là gì? Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Tại sao chúng ta phải quan tâm về vấn đề này? Tại sao cuộc sống phải có một mục đích? Tại sao cuộc đời phải có ý nghĩa? Tại sao chúng ta muốn cuộc sống phải có ý nghĩa? Tại sao chuỏng ta tạo ra những ngôn ngữ, triết học và tôn giáo? Tại sao chúng ta mong mỏi hay ước mơ về sự giác ngộ tối thượng nếu tất cả những gì đang có hay có thể có chỉ là kinh nghiệm sống dựa trên cái nhìn của tự ngã? Phải chăng việc chúng ta được sinh ra trong sắc thân làm người này, với những giới hạn của nó, chỉ là một ngẫu nhiên trong cái hệ thống hành tinh vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta?
Chúng ta không thể hiểu được tường tận cái vũ trụ mà chúng ta đang sống. Chúng ta chỉ có thể nghi vấn về nó. Chúng ta có thể trực cảm và ngắm nhìn vũ trụ, nhưng chúng ta không thể nào thu nó nhỏ lại thành viên thuốc. Đầu óc của chúng ta cũng không ghi nhận hết được nó. Vì thế, cách suy nghĩ duy vật khuyên chúng ta càng không nên đặt ra những câu hỏi trên. Ngược lại, nó thúc đẩy chúng ta diễn giải tất cả kinh nghiệm của cuộc đời này bằng logic và lý luận, dựa trên những giá trị của chủ nghĩa duy vật và khoa hoốc thực nghiệm.

KINH NGHIỆM TỈNH THỨC

Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy cái kinh nghiệm chung hay phổ biến của tất cả chúng sinh, đó là khổ đau. Đạo Phật cũng trình bày cho chuỏng ta con đường đi ra khỏi khổ đau. Khổ đau là kinh nghiệm có sức mạnh làm thức tỉnh con người. Khi chúng ta đau khổ, chúng ta bắt đầu đặt ra nhiều câu hỏi. Chúng ta có khuynh hướng đi tìm, xem xét, nghi vấn, và thử tìm giải đáp.
Trong câu chuyện của Thái tử Siddattha (tên của Đức Phật trước khi Ngài giác ngộ), chúng ta được kể khi còn là thái tử, Ngài sống trong khung cảnh chỉ có dục lạc, sắc đẹp, tiện nghi, và ân sủng - nói khác đi, Ngài có tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời. Và rồi, như câu chuyện tiếp tục kể, vào lúc hai mươi chín tuổi, Thái tử Siddattha rời cung điện của hoàng gia đi tham quan ngoại thành, vạ trong chuyến đi này, Ngài gặp và biết được những sứ giả hiện thân của tuổi già, bệnh tật, và sự chết.
Ngày nay, có người sẽ nói là chắc chắn Đức Phật phải biết về tuổi già, bệnh tật và sự chết trước năm Ngài hai mươi chín tuổi. Theo cách suy nghĩ của chúng ta ngày nay, rõ ràng là từ lúc còn nhỏ, ai cũng biết là mọi người đều lớn lên, già đi, bị bệnh, rồi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp của Đức Phật, Thái tử Siddattha đã bị cách ly khỏi những kinh nghiệm này từ lúc còn nhỏ, và mãi cho đến lúc Ngài tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm trên, Ngài mới thật sự bừng ngộ.
Cũng tương tự như thế, chúng ta có thể sống cả đời cho rằng mọi việc đều ổn thỏa. Ngay cả những đau khổ hay thất vọng thường gặp cũng không nhất thiết làm chúng ta thức tỉnh. Chúng ta có thể suy nghĩ phớt qua về chúng, nhưng chung quanh chúng ta có quá nhiều cơ hội để chúng ta không tìm hiểu và không để ý đến chúng. Phải chăng đổ lỗi cho người khác đã gây đau khổ cho chúng ta lạ một việc dễ làm? Chúng ta có thể đổ lỗi cho nhà nước, cha mẹ, bạn bè hay kẻ thù của chúng ta, cho những thế lực từ bên ngoài. Nhưng chúng ta chỉ bừng tỉnh với cái khổ đau của tuổi già, bệnh tật, và sự chết khi chúng ta biết là những điều này sắp xảy đến cho chúng ta. Và sự bừng tỉnh này đến không phải chỉ như một ý niệm trừu tượng mà là một tình cảm thật sự trào lên từ chính gan ruột của chúng ta, là một cái nhìn trí tuệ thực sự rằng đây là những gì xảy đến cho tất cả mọi người. Những gì sinh ra sẽ già nua, suy thoái, và chết.
Sứ giả thứ tư mà Đức Phật gặp trong chuyến tham quan ngoại thành là một vị sa môn. Sa môn là một tu sĩ, hay một người tầm đạo, một người dâng hiến đời mình cho lý tưởng đi tìm sự thật tuyệt đối. Trong câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, vị sa môn được mô tả như một tu sĩ cạo đầu và mặc y.
Bốn vị sứ giả này là bốn biểu tượng trong Đạo Phật: Tuổi già, bệnh tật, sự chết, và vị sa môn. Nó có nghĩa là sự thức tỉnh của tâm thức con người về một lý tưởng tôn giáo, về ước mơ nhận thức được sự thật tuyệt đối, về ước vọng được tự do và giải thoát khỏi tất cả si mê và đau khổ tiềm ẩn trong trái tim của con người.

VIỆC TU TẬP TRONG ĐẠO PHẬT

Ngày nay, nhiều người có xu hưóng mô tả việc thiền định trong đạo Phật như là sự rời bỏ cuộc đời này để phát triển một trạng thái tâm thức vắng lặng và tập trung cao độ, trong một khung cảnh được lựa chọn, điều chỉnh, và kiểm soát cẩn thận. Vì thế, ở Mỹ và một số nước khác, nơi mà việc tu thiền Phật giáo ngày càng phổ biến, người ta quyết đoán rằng thiền định trong đạo Phật là một trạng thái vắng lặng và tập trung của tâm, trong đó kỹ thuật thiền và việc kiểm soát thân tâm là rất quan trọng.
Kỹ thuật thiền là tốt và cần thiết. Nhưng nếu tâm của bạn đã bắt đầu phát huy được một số năng lực quán chiếu thì bạn thường không cần, hoặc thậm chí không nên mất thì giờ để tinh luyện bằng cách đè nén tất cả những gì thô thiển hay khó chịu xảy ra trong tâm. Trái lại, bạn nên triển khai và phát huy tối đa năng lực quán chiếu và nhạy cảm của tâm để biết rằng, ngay bây giờ, những điều kiện mà bạn nhận thức được - hay nói khác đi, những gì bạn đang cảm xúc, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm, và suy nghĩ - đều là vô thường.
Vô thường là đặc tính chung của tất cả hiện tượng, cho dù đó là niềm tin vào Thượng đế hay ký ức về quá khứ; tư tưởng sân hận hay tình cảm thương mến; cao hay thấp, thô thiển hay vi tế, xấu hay tốt, dễ chịu hay đau đớn. Bất kỳ tính chất của nó là gì, bạn đang quán sát nó như một sự vật khách quan. Tất cả những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt. Nó lạ vô thường. Và bây giờ, như một phương pháp hành trì và quán niệm về cuộc sống, việc khai mở tâm thức sẽ giúp bạn nhìn thấy rõ được tình cảm và tư tưởng, bản chất của sắc thân, cùng với những đối tượng giác quan của bạn.
Chúng ta hãy trở lại vấn đề ý thức. Khoa học hiện đại hay khoa học thực nghiệm xem thế giới vật chất mà chúng ta thấy, nghe, vạ cảm nhận được mới là thế giới có thật. Vì thế, thế giới khách quan này được xem là một thực tại. Chúng ta có thể trông thấy thế giới vật chất, đồng ý với nhau về tính chất của nó, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm nó, hay thậm chí đồng ý với nhau về cảm nhận hay tên gọi mà chúng ta dành cho nó. Nhưng phải chăng cảm nhận về thế giới này cũng vẫn là một sự vật khách quan (sinh khởi trong tâm thức của chúng ta)? Vì ý thức cho chúng ta cảm tưởng là có chủ thể và khách thể nên khi quan sát về thế giới vật chất, chúng ta nghĩ là chúng ta đang quan sát một cái gì đó tồn tại bên ngoài và biệt lập với chúng ta.
Trong khi giảng dạy giáo lý, Đức Phật đã đưa quan hệ chủ thể và khách thể đến điểm tận cùng của nó. Ngài dạy rằng tất cả cảm nhận, tất cả trạng thái khởi lên trong tâm thức, tất cả tình cảm, tất cả cảm xúc, tất cả đối tượng thế giới vật chất mà chúng ta nghe và thấy đều là vô thường. Ngài nói, "Những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt". Và Đức Phật luôn nhắc đi nhắc lại trong giáo lý của Ngài rằng đây là một cái nhìn trí tuệ rất quan trọng. Nó giải thoát chúng ta khỏi tất cả những si mê. Những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt.
Ý thức cũng có thể được định nghĩa là khả năng thấy biết của chúng ta hay kinh nghiệm của sự thấy biết. Chủ thể thấy biết khách thể. Khi chúng ta nhìn vào những sự vật và cho chúng tên gọi, chúng ta nghĩ là chúng ta biết về chúng. Chúng ta nghĩ là mình biết người này hay người nọ vì chúng ta biết tên của họ hay ghi nhớ họ trong ký ức. Chúng ta nghĩ chúng ta biết tất cả mọi việc trên đời vì chúng ta ghi nhớ được chúng. Nhiều lúc, khả năng thấy biết của chúng ta bị giới hạn - chúng ta chỉ có thể biết "về" thay vì biết trực tiếp bản chất của sự vật.
Tu tập trong đạo Phật là an trú trong sự tỉnh giác thanh tịnh, nơi đó có một loại hiểu biết đặc biệt mà chúng ta gọi là trí tuệ, hay tri giác trực nhận. Đó là một loại tri giác không dựa trên cảm nhận, tư duy, lập trường, hay học thuyết, mà chỉ có thể có qua sự tỉnh giác hay chánh niệm. Tỉnh giác hay chánh niệm có nghĩa là khả năng không dính mắc vào bất cứ đối tượng nào, dù đó là vật chất hay tinh thần. Khi không bị dính mắc, tâm sẽ ở trong trạng thái tỉnh thức, hiểu biết, và trong sáng thuần tịnh. Đó chính là tỉnh giác hay chánh niệm. Tâm tỉnh giác là tâm thanh tịnh, dễ tiếp thu, và nhạy cảm với những gì xảy ra chung quanh. Nó không còn là cái tâm bị giới hạn, quy định, và chỉ biết phản ứng lại với những lạc thú và sự khó chịu, với những lời khen và chê, với hạnh phúc và đau khổ.
Thí dụ nếu bây giờ bạn đang nổi giận, bạn có thể chạy theo cơn giận. Bạn có thể cho mình giận là đúng và tiếp tục nuôi dưỡng mãi cái tình cảm đặc thù đó, hoặc là bạn có thể đè nén cơn giận và tìm cách tiêu diệt nó vì bạn lo sợ hoặc không thích sự giận dỗi. Tuy nhiên, thay vì chọn một trong hai cách trên, bạn có thể quán tưởng về cơn giận như là một đối tượng quan sát. Và bây giờ, nếu cơn giận là bản ngã thật sự của chúng ta, thì chúng ta không thể nào quan sát nó được; đây chính ý nghĩa của những gì mà tôi gọi là "quán tưởng". Cái gì có thể quan sát và suy tưởng về tình cảm giận? Cái gì có thể theo dõi và xem xét tình cảm, sức nóng trong thân thể, hay trạng thái của tâm? Cái có thể quan sát và xem xét này chính là tâm quán tưởng. Tâm của con người là tâm có khả năng quán tưởng.

SỰ HIỂN LỘ CHÂN LÝ CHUNG CHO TẤT CẢ TÔN GIÁO


Chúng ta có thể đặt những câu hỏi: Tôi là ai? Tại sao tôi sinh ra trong cuộc đời này? Đời sống thật ra là gì? Điều gì sẽ xảy ra khi tôi chết? Cuộc sống này có mục đích hay ý nghĩa gì không? Vì chúng ta có khuynh hướng nghĩ là chỉ có người khác mới biết những vấn đề này còn bản thân mình thì mù tịt, nên chúng ta thường đi tìm lời giải đáp từ bên ngoài thay vì tự khai mở tâm thức của mình và kiên nhẫn chánh niệm nhìn sự thật hiển lộ. Qua việc chánh niệm và tỉnh giác thật sự, chân lý sẽ được hiển bày. Vạ sự hiển lộ chân lý này cũng chính là sự chứng đắc về tâm linh. Khi dâng hiến đời mình cho một lý tưởng thánh thiện vạ sống trọn vẹn trong đó, chúng ta tạo điều kiện cho chân lý hiển lộ mà nó còn gọi là trí tuệ - trí tuệ sâu sắc và thật sự - soi sáng vào bản chất của sự vật. Chân lý hiển lộ không thể diễn tả bằng lời. Ngôn ngữ không đủ khả năng diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ. Chính vì thế mà kinh nghiệm chứng ngộ có thể rất khác nhau. Ngôn từ và cách thức diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ là biến thiên không lường được. Vì thế mà những kinh nghiệm chứng ngộ của người Phật tử nghe rất là Phật giáo, của người Ky-tô giáo nghe rất là Ky-tô giáo, và điều này cũng hợp lý thôi. Không có gì sai trái cả. Nhưng chúng ta cần chấp nhận giới hạn của quy ước ngôn ngữ. Chúng ta cần hiểu rằng ngôn ngữ không phải là sự thật tuyệt đối; nó là một cố gắng để truyền đạt cái thực tại không thể diễn đạt bằng lời này đến người khác.
Theo dõi con người ngày nay đi tầm đạo là một điều thú vị. Một nước như nước Anh, nơi mà đa số dân là Ky-tô giáo giờ đây lại có rất nhiều tôn giáo. Tại đất nước này, tín đồ của các tôn giáo khác nhau đã nhiều lần tìm cách gặp gỡ và cố gắng tìm hiểu về đức tin của nhau. Chúng ta có thể dừng lại ở mức độ đơn giản và chỉ cần biết là người Hồi giáo tin ở đấng Allah, người Ky-tô giáo tin ở Chúa Jesus Christ và người Phật tử tin ở Đức Phật Thích Ca. Nhưng điều mà tôi quan tâm ở đây là việc chúng ta đi vượt lên trên những quy ước và tập tục tôn giáo để tiến đến một sự hiểu biết thật sự, sự hiểu biết sâu sắc về chân lý tuyệt đối. Và đây là cách nói của người theo đạo Phật.
Ngày nay chúng ta có dịp cùng nhau đi tìm chân lý chung cho tất cả tôn giáo; tất cả chúng ta có thể bắt đầu giúp nhau. Hình như đây là lúc mà việc tìm cách thay đổi đức tin của người khác hay tranh giành ảnh hưởng tôn giáo không còn ích lợi hay có giá trị gì cả. Thay vì tìm cách thay đổi đức tin của người khác, tôn giáo cho chúng ta cơ hội để thức tỉnh về bản chất thật sự của chúng ta, về sự tự do thật sự, về lòng từ ái và bi mẫn. Đó là một cách sống với tất cả sự nhạy cảm và tất cả khả năng đón nhận, để chúng ta có thể hân hoan và mở rộng con người của mình với cái bí ẩn và kỳ diệu của vũ trụ trong suốt phần còn lại của cuộc đời chúng ta.


Ajahn Sumedho