Phát huy sự quán thấy sâu xa và loại bỏ tận gốc các uế tạp của tâm

Trên nguyên tắc những gì tốt đẹp sinh ra từ những gì không tốt đẹp. Quý vị hãy nhìn vào những cánh hoa sen thì sẽ rõ: chẳng phải là xinh đẹp và tươi mát hay sao! Những cánh hoa ấy mọc trong bùn đất dơ bẩn và hôi tanh, thế nhưng một khi đã vươn lên khỏi bùn thì hoa lại trở nên sạch sẽ và tinh khiết. Người ta có thể kết các cánh hoa ấy lại để làm vương miện cho một vị vua, bởi vì các cánh hoa ấy sẽ không còn quay lại với lớp bùn nhơ trước đây nữa (một người tu tập đạt được giải thoát sẽ không còn quay lại với thế giới luân hồi).
Cánh hoa sen cũng là hình ảnh của một người hành thiền nghiêm chỉnh cố gắng và luyện tập kiên trì. Người hành thiền ấy phải tìm hiểu thật sâu xa về một thứ gì đó thật dơ bẩn và kinh tởm mới có thể nhờ đó mà giúp mình loại bỏ được tất cả những gì dơ bẩn và kinh tởm trong tâm thức mình. Cái thứ thật dơ bẩn và kinh tởm ấy chính là thân xác mình. Cái thân xác đó là kết quả của một sự kết hợp gồm các thứ dơ bẩn, nước tiểu và phẩn. Những gì tiết ra từ tóc trên đầu, lông trên người, các lỗ hổng, móng chân, móng tay, răng, da, v.v. tất cả cũng chẳng khác gì như phẩn (những thứ bài tiết). Nếu các thứ ấy lỡ mà rơi vào đĩa thức ăn thì người ta sẽ trút bỏ đi ngay, bởi vì không ai muốn ăn những thứ ấy cả. Hơn nữa thân thể cũng phải được thường xuyên tắm gội, kỳ cọ hầu giúp nó có vẻ dễ nhìn hơn. Nếu không tắm thì nó sẽ toát ra mùi hôi đến độ có thể khiến người khác phải tránh ra xa. Quần áo và các thứ phụ kiện khác (quần áo lót chẳng hạn, một nhà sư không muốn nói đến các thứ ấy) khi không dính vào thân xác thì sạch và có vẻ hấp dẫn, thế nhưng cứ hễ dính vào thân xác rồi thì sẽ trở nên dơ bẩn ngay, nếu lâu ngày không giặt thì sẽ có mùi hôi không ai dám đến gần.
Những gì trên đây cho thấy rằng thân xác cũng chỉ là một cái bọc chứa nước tiểu và phẩn, và cũng chỉ làasubha (tiếng Pa-li là xấu xí) và patikkula (tiếng Pa-li là kinh tởm). Ngay khi thân xác còn mang sự sống thì nó cũng đã là như thế, đến khi sự sống rời bỏ nó thì nó sẽ còn trở nên kinh tởm hơn nữa, kinh tởm hơn bất cứ một thứ gì khác. Vì thế một người hành thiền nghiêm chỉnh ngay từ lúc mới bắt đầu đã phải luyện tập thật đúng phương pháp nhằm giúp mình tìm hiểu thân xác mình, và phải thật kiên trì cho đến khi nào có thể hiểu được tường tận bản chất đích thật của nó. Nếu muốn đạt được sự trong sáng ấy thì người hành thiền phải phân tích và tìm hiểu bất cứ một thành phần nào của thân thể tỏ ra thích nghi với mình hơn cả (phù hợp với các mối quan tâm và tính khí của mình)cho đến khi nào một thể dạng của thân xác hiện ra với mình dưới hình thức uggaha nimitta (chữ uggata có nghĩa là một sự quán thấy hay hiển lộ/arise, ascend; chữ nimitta có nghĩa là lý do, nguyên nhân hay động cơ thúc đẩy/reason, motive, và chữ này trong tiếng Pa-li cũng đồng nghĩa với chữ hetu, một thuật ngữ quen thuộc hơn trong kinh sách và có nghĩa là nguồn gốc hay nguyên nhân. Do đó có thể hiểu ý nghĩa của các chữ này là một "sự hiển lộ nguyên nhân" hay "quán thấy sự khơi động"). Sau đó người hành thiền phải hướng sự chú tâm vào đấy và thường xuyên luyện tập hầu giúp mình phát huy một sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn.
Vậy câu phát biểu "phải thường xuyên luyện tập và phát huy một sự hiểu biết ngày càng sâu sắc hơn" có nghĩa là gì? Nếu muốn hiểu được câu này thì phải dựa vào hình ảnh sau đây: nếu muốn trồng lúa thì người nông dân phải cày bừa thửa ruộng của mình, sau đó mới trồng lúa vào đất. Năm sau cũng lại phải trồng lúa vào đất. Người nông dân không thể nào trồng lúa trong không khí hay ở lưng từng trời được mà chỉ có thể trồng lúa vào đất mà thôi, sau đó thì các cọng lúa cứ thế mà đơm hạt một cách tự nhiên. Nếu biết chăm lo mảnh đất của mình ngày càng tích cực hơn thì người nông dân nào phải cầu khẩn: "Thóc lúa ơi, cầu mong sao cho thóc lúa sẽ kéo đến chứa ngập các vựa lúa của tôi". Thóc lúa chỉ kéo đến một cách tự nhiên mà thôi (các cọng lúa chỉ đơm hạt một cách tự nhiên khi các điều kiện hội đủ, không nhờ vào sự cầu khẩn mà đơm hạt). Ngay cả trong trường hợp nếu người nông dân không muốn thóc lúa kéo đến chất chứa trong kho của mình thì dù có cầu khẩn: "Thóc lúa ơi, mong sao thóc lúa đừng kéo đến chất đầy các kho lúa của tôi nhé", thì thóc lúa cũng cứ kéo đến chứa đầy các vựa lúa khi mà mình đã chăm sóc mảnh đất thật đúng cách (làm việc phải và dù không hề cầu mong một sự hồi đáp nào thế nhưng phúc hạnh cũng sẽ đến với mình một cách tự nhiên).
Cũng thế, với tư cách là những người hành thiền nghiêm chỉnh chúng ta phải luôn tìm hiểu thân xác mình qua một thành phần thân thể nào đó mà mình thường quan tâm nhiều nhất, hoặc hiện ra với mình trước nhất mỗi khi nghĩ đến (tức là những thành phần thân xác ám ảnh mình nhiều nhất, chẳng hạn như vóc dáng, khuyết tật, cơ quan sinh dục... chẳng hạn là những gì liên hệ đến tính dục và bản năng truyền giống, hoặc các cơ quan dinh dưỡng, sức khỏe và các dấu hiệu già nua liên hệ đến bản năng sinh tồn). Sau đó và dù đấy là thành phần nào mà mình đã chọn thì cũng không được lơ là hoặc quên đi và không nghĩ đến nữa, Thường xuyên luyện tập không có nghĩa là chỉ luyện tập trong lúc hành thiền, dù bằng cách ngồi hay đi, mà phải chú tâm và vận động mọi việc tìm hiểu của mình trong bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào. Dù đang ngồi, đang đứng hay đang đi, dù đang ăn, đang uống hay đang làm việc, đang suy nghĩ hay nói năng, thì chúng ta cũng phải phát huy một sự tỉnh giác bao quát hướng vào thực tại. Đấy có nghĩa là "cách luyện tập không ngưng nghỉ" (nói cách khác thì đấy là sự "chú tâm": một người tu tập chân chính không nên đánh mất một giây phút nào trong cuộc sống của mình, không để cho tâm thức mình bi xao lãng bởi bất cứ một sự sinh hoạt nào, sự chú tâm đó trước hết sẽ giúp mình tìm thấy một sự thăng bằng trong nội tâm và giúp mình tìm hiểu ngày càng sâu sắc hơn về Đạo Pháp, về bản chất của chính mình, về thế giới hiện tượng đang biến động chung quanh mình. Đấy là cách giúp mình trông thấy ngày càng minh bạch hơn con đường mà mình đang bước đi).
Nếu muốn tìm hiểu thân xác mình hầu giúp mình thấu triệt sâu xa về bản chất của nó thì quý vị phải phân chia nó ra thành nhiều thành phần tùy theo ý mình. Chẳng hạn như quý vị hình dung thân xác mình qua các thành phần cấu tạo ra nó - chẳng hạn như đất, nước, lửa và khí - và cứ theo đó mà quán xét không ngừng cho đến khi nào hiểu được ý nghĩa của các thuật ngữ chỉ định ấy. Ở cấp bậc này, quý vị có thể sử dụng bất cứ phương pháp nào thích hợp với mình, thế nhưng tuyệt nhiên không được lơ là và bỏ ngang không chú tâm vào điểm khởi đầu đã hiện ra với mình trước đây (điểm khởi đầu trong trường hợp này là bốn thành phần đất, nước, lửa và khí tạo ra thân xác). Không nên luyện tập một lần rồi sau đó bỏ qua và không nghĩ đến nữa trong suốt mười lăm ngày hay một tháng. Hãy quán xét điều ấy qua mọi khía cạnh: bên trong, bên ngoài, bên trên, bên dưới, lập đi lập lại không ngừng. Nói cách khác là hãy quán nhìn vào nội tâm nhằm mang lại sự an bình và sau đó lại tiếp tục tìm hiểu thân xác - không nên chỉ biết suy tư về thân xác hoặc duy nhất chỉ phát huy sự thăng bằng nội tâm (đây chính là một cách nói dễ hiểu và đơn giản về hai thể dạng khác nhau trong phép thiền định là sự chú tâm và sự quán thấy. Nếu không chú tâm giúp cho tâm thức được thăng bằng tức là "định" thì không thể nào có thể phát động được sự hiểu biết sâu xa tức là "quán". Nếu "định" được tâm mà không lợi dụng thể dạng thăng bằng và yên lặng đó của nó để "quán" thấy thì cũng chỉ là vô ích mà thôi).
Khi nào đã thuần thục và quán thấy thân xác mình một cách thật sâu sắc đúng với bản chất là như thế của nó, thì khi đó kết quả sẽ hiện ra với mình một cách thật tự nhiên: tâm thức sẽ nhận biết được một sự hội tụ thật sâu xa - tất cả dường như đều tập trung lại và trở thánh một thể dạng đồng nhất: toàn thể thế giới chỉ là một sự kết hợp giữa các thành phần (trong trường hợp quán tưởng về bốn thể dạng đất, nước, lửa và khí thì sẽ quán thấy toàn thế giới cũng chỉ là một thể dạng cấu hợp của bốn thành phần ấy). Và cũng đúng vào lúc ấy một hình ảnh hiện sẽ ra với mình, cho thấy thế giới phẳng lì tương tự như mặt một chiếc trống, bởi vì toàn thể thế giới cũng chỉ mang cùng một bản chất tự tại (inherent/nội tại) và thuần nhất. Rừng rậm, núi non, con người, súc vật và cả chính mình, tất cả cũng sẽ được quán thấy ở một cấp bậc đồng nhất như nhau (không còn một sự phân biệt hay diễn đạt nào trong tâm thức). Từ sự quán thấy ấy sẽ hiện ra một sự hiểu biết giúp mình loại bỏ vĩnh viễn tất cả những thứ nghi ngờ trong con tim cũng như trong tâm trí của mình (khi nào quán thấy con người và thế giới tất cả hiện ra dưới một thể dạng đồng nhất thì mọi sự diễn đạt, thắc mắc cũng như các xúc cảm - ghét bỏ, hận thù, yêu thích, si mê... cũng sẽ tan biến hết). Người ta gọi đấy là yatha-bhuta-nana-dassana-vipassana: tức là sự hiểu biết sâu xa giúp mình trông thấy và hiểu được mọi sự vật cũng chỉ là như thế (tức là một sự buông xả toàn diện và tuyệt đối).
Những gì nêu lên trên đây chưa thật sự là giai đoạn cuối cùng của con đường mà chỉ là điểm khởi đầu của một giai đoạn mới tiếp theo sau đó. Với tư cách một người hành thiền nghiêm chỉnh chúng ta phải tiếp tục luyện tập thật kiên trì không hề mệt mỏi, hầu giúp mình chủ động một cách toàn diện và tuyệt đối sự hiểu biết trong sáng ấy về mọi sự vật. Nhờ đó chúng ta sẽ nhận thấy rằng các thứ tạo tác tâm thần khiến mình tưởng tượng ra: "Tôi là thế này" hoặc "Cái này là của tôi" không phải là những thực thể vững bền, và nếu nhìn chúng dưới một khía cạnh khác là sự bám víu thì chúng cũng sẽ chỉ là nguốn gốc mang lại khổ đau mà thôi. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng các thành phần luôn luôn trung thực với [bản chất của] chúng: tức hiện ra, già nua, bệnh tật và chết; chúng bắt đầu thoái hóa ngay từ trước khi được sinh ra đời (từ trong tử cung các thành phần cũng đã bắt đầu "thoái hóa" có nghĩa là hiện tượng già nua đã bắt đầu khởi sự với một bào thai, kể cả trong quá khứ các thành phần thân xác của các kiếp sống trước cũng đã từng thoái hóa để trở thành đất, nước, lửa và khí), chúng vận hành như thế từ những thời gian vô tận. Vì nguyên nhân trói buộc giữa các điều kiện (tức là sự tạo tác do điều kiện mà có/condionned co-production/interdependence/lý duyên khởi) tạo ra thân xác và tâm thức mình - tức là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) gồm rupa (sắc/hình tướng), vedana (thụ/giác cảm), sanna (tưởng/các cảm nhận tâm thần, sự tưởng tượng), sankhara (hành/tác ý hay sự tạo nghiệp) và vinnana (tri thức) - nên tư duy và các thứ nhãn hiệu (có nghĩa là các tên gọi: chẳng hạn như cái tôi, cá thể, con người, giới tính, chủng tộc, v.v...) đã được tạo ra và buộc chặt vào các kiếp sống trước và cả kiếp sống này (Đức Đạt-lai Lạt-ma gọi chung những thứ ấy là "vô minh tiên khởi"). Xuyên qua vô số các kiếp sống ấy tâm thức cứ tiếp tục tin một cách sai lầm vào những thứ ấy do chính nó tạo ra. Các thứ tạo tác tâm thần ấy không phải là những gì tự chúng gắn chặt vào nội tâm mình (mà chỉ là kết quả mang lại từ hiện tượng tạo tác tương liên mà thôi). Khi tìm hiểu đến chỗ tột cùng của mọi sự vật thì người ta tất sẽ phải nhận thấy thật minh bạch, không một chút nghi ngờ nào cả, rằng tất cả mọi hiện tượng trong thế giới dù có hàm chứa một tri thức hay không, thì lúc nào cũng chỉ là như thế, luôn trung thực với bản chất của chúng: hiện ra, tự thoái hóa, và cũng chỉ là như thế.
Đấy cũng là cách mà chúng ta quán nhận được pubbe ananussu tesu dhammesu, có nghĩa là cách thức vận hành [tự nhiên] của mọi hiện tượng (schéma de fonctionnements des phénomènes/regularities of behavior of all elements/sơ đồ, mô hình, quy luật vận hành tự nhiên của mọi hiện tượng, chữ "hiện tượng" trong kinh sách gọi là dhamma, các kinh sách gốc Hán ngữ dịch chữ này là "pháp") thì lúc nào cũng chỉ là như thế. Dù không có ai bảo cho mình biết điều ấy, thế nhưng chúng ta cũng đều biết chắc chắn tất cả cũng chỉ là như thế. Và vì thế mà Đức Phật cũng đã xác nhận rằng chưa hề có ai nói với Ngài về điều này cả, bởi vì tất cả mọi sự cũng chỉ là như thế từ trước khi Ngài được sinh ra đời. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng mô hình vận hành ấy của tất cả mọi hiện tượng nhất thiết cũng chỉ là như thế. Thế nhưng chỉ vì các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (tức là cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn, còn gọi là "hành", mang chức năng diễn đạt và tưởng tượng nhằm tạo dựng ra đủ mọi thứ trong tâm thức)đã bám víu vào những thứ ấy qua không biết bao nhiêu tiền kiếp, cho nên chúng cứ tiếp tục vận hành tùy thuộc vào những sự giả định (suy diễn) sai lầm ấy của chúng. Tâm thức bị tràn ngập bởi các xu hướng tiềm ẩn (anusaya) đến độ đã khiến nó nhìn vào thực thể của các thứ ấy (các sự tạo tác tâm thần) một cách sai lầm (bằng cách cho rằng các thứ ấy là của mình, là chính mình), và chính vì thế nên sự bám víu vào các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức sẽ [là nguyên nhân] đưa đến các thể dạng hình thành và sự tái sinh (bám víu vào thế giới hiện tượng qua các sự diễn đạt và các sự tạo tác tâm thần của mình sẽ khiến mình tiếp tục gắn liền với thế giới hiện tượng, tái sinh trong thế giới hiện tượng và tiếp tục luân hồi bất tận với thế giới ấy).
Khi nào một người hành thiền nghiêm chỉnh phân tích mọi sự vật đến chỗ tột cùng của chúng và nhận thấy được bản chất tự tại (đích thật, nội tại) của chúng thì cũng sẽ nhận thấy rằng:
sable sankhara anicca, sable sankhara dukkha
(nguyên nghĩa tiếng Pa-li là: tất cả các sự tạo tác tâm thần là vô thường, tất cả các sự tạo tác tâm thần đều là khổ đau. Chữ sankhara có nghĩa là những sự tạo tác tâm thần, tức là nhũng sự diễn đạt, hình dung hay tưởng tượng của tâm thức và là thầnh phần cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn, đưa đến sự hình thành của "tri thức" là thành phần cấu hợp thứ năm trong số năm thứ cấu hợp tạo ra một cá thể. Mạn phép nhắc đi nhắc lại về thành phần này là vì chức năng của nó rất quan trọng, tức là giữ vai trò tạo nghiệp cho một cá thể. Cấu hợp thứ tư này sẽ đưa đến sự hình thành của tri thức và đấy là cấu hợp thứ năm của ngũ uẩn)
[Câu trên đây có nghĩa là] "các hành động tạo tác tâm thần (cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn còn gọi là "hành") - [tức là] các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (conditions de l'esprit/conditions of the mind) đều là những gì mang tính cách vô thường, trong khi đó thế giới của chúng sinh thì lại không biến đổi (constant) (các tạo tác tâm thần - kể cả thân xác và tâm thức của một cá thể - luôn biến động và vô thường, nhưng sự sống nói chung vẫn tiếp tục tồn tại và luân hồi), từ muôn thuở cái thế giới đó cũng chỉ đơn giản là như thế. Quý vị hãy phân tích các điều trên đây dựa vào ý nghĩa của Bốn Sự Thật Cao Quý (Tứ Diệu Đế) hầu giúp mình điều chỉnh lại (biến cải) các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức mình (tức là các tạo tác tâm thần, các sự tưởng tượng và diễn đạt của tâm thức) thì tất quý vị sẽ tự mình nhận thấy được chúng đều là vô thường và cũng chỉ là nguồn gốc của khổ đau. Chỉ vì nguyên nhân quý vị không tự mình nhận thấy được chúng (tức là các điều kiện trói buộc tạo ra tâm thức) chỉ là vô thường và là nguồn gốc của khổ đau cho nên quý vị tự để cho mình rơi vào chiếc bẫy giăng ra bởi các thứ tạo tác tâm thần (formations mentales/mental fahioning, còn gọi là sự tạo nghiệp, tức là vai trò của cấu hợp thứ tư của ngũ uẩn gọi là "hành"). Khi nào quý vị thật sự ý thức được điều ấy thì nó sẽ giúp quý vị biến cải và sửa đổi được các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức của quý vị. Và đấy cũng là cách mà quý vị thực hiện được:
sankhara sassata natthi
(sankhara: các sự tạo tác tâm thần; sassata: vô tận; natthi: không bao giờ. Nguyên nghĩa của câu này là: "các tạo tác tâm thần không bao giờ là vô tận", nếu nói cách khác thì chúng chỉ là vô thường. Và nếu mở rộng ý nghĩa của câu này thì sẽ hiểu thật dễ dàng rằng "linh hồn " là kết quả của một sự tạo dựng tâm thần, hoặc trực tiếp hơn là một sự tạo tác tâm thần, cho nên nó sẽ không bao giờ là vô tận được. Đối với một người Phật Giáo thì phải hiểu rằng cực lạc, địa ngục, ta bà, chư Phật theo các cách diễn đạt và tưởng của mình qua hình thức của những sự tạo tác tâm thần bên trong tâm thức mình cũng đều là vô thường mà thôi)
[Câu trên đây] có nghĩa là: không có một sự tạo tác tâm thần nào có thể trường tồn mãi mãi được. Các sự tạo tác tâm thần (mental fashionings) cũng chỉ đơn giản là các điều kiện [trói buộc tạo ra] tâm thức (conditions of the mind), và cũng tương tự như ảo giác mà thôi. Do đó khi nào người ta nhận thấy được thật minh bạch từ cả hai phía - một bên là các chúng sinh cũng chỉ đơn giản là như thế, và một bên là các thứ tạo tác tâm thần cũng chỉ đơn giản là các điều kiện [trói buộc và cần thiết tạo ra] tâm thức do chính tâm thức đã tưởng tượng ra - thì thitibhutam tức tâm thức nguyên sinh sẽ không còn lệ thuộc vào điều kiện nào nữa cả, và nhờ đó nó sẽ được giải thoát (một mặt tâm thức nguyên sinh đứng ra bên ngoài thế giới của sự sống hiện ra qua các hình thức luân hồi bằng cách nhận thấy nó cũng chỉ là như thế, và một mặt khác thì đứng ra ngoài những sự tạo tác tâm thần bằng cách quán nhận được chúng cũng chỉ là những sự tưởng tượng do "cái tôi" tạo dựng ra. Khi nào tâm thức ý thức được vị thế đó của mình thì nó cũng sẽ nhận thấy được thể dạng nguyên sinh của chính nó, và đấy chính là sự Giải Thoát khỏi các điều kiện trói buộc tạo ra nó - conditions of the mind. Một nhà sư sống trong rừng trên miền bắc Thái giữa những người nông dân chất phác thuộc tiền bán thế kỷ XX, đã lưu lại cho chúng ta hôm nay những câu giảng thật trong sáng, đơn giản nhưng vô cùng chính xác, sâu sắc và siêu việt, có thể giúp người tu tập đạt được một cấp bậc giác ngộ nào đó. Ông quả xứng đáng là vị thầy của nhà sư Ajahn Chah. Người chuyển ngữ khiêm tốn và thiển cận này dường như cũng được thừa hưởng lây một chút dư vị nào đó trong những lời giảng huấn thật cao siêu này. Xin chắp tay cảm tạ và cúi đầu bái phục).
Một khi đã thấu triệt được những lời giáo huấn cho biết rằng tất cả các hiện tượng và các phương cách vận hành chi phối cung cách hành xử [của một cá thể] (schemas de comportement/regularities of behavior/sơ đồ, mô hình hay cấu trúc chi phối sự suy nghĩ và diễn đạt của tâm thức đưa đến các sự tạo tác tâm thần) không hề hàm chứa cái "ngã" (cái tôi), thi làm thế nào những thứ ấy tự chúng lại có thể chính là cái "ngã" được? Vai trò duy nhất của chúng (tức là của các hiện tượng và các phương cách hay mô hình vận hành của tâm thức) cũng chỉ đơn giản là làm hiện lên những gì mà chúng phải đảm trách thế thôi. Vì thế nên Đức Phật đã dạy rằng:
sabbe dhamma anatta
Có nghĩa là: "Tất cả mọi hiện tượng đều vô ngã".
Với tư cách những người hành thiền nghiêm chỉnh (như chúng ta đã nhận thấy trên đây là mỗi khi nói đến người hành thiền thì nhà sư Ajahn Mun đều nhấn mạnh đến tính cách nghiêm chỉnh của người này. Sở dĩ nêu lên sự lưu ý này là để nhấn mạnh đến một khía cạnh khá lệch lạc của phép thiền định được áp dụng trong thế giới Tây ¨Phương. Một số người Tây Phương hiện nay có xu hướng đồng hóa phép thiền định của Phật Giáo với một phương pháp luyện tập nhằm mục đích cải tạo sức khoẻ, tương tư như một môn thể dục. Đây là một hình thức thoái hóa hay biến dạng vô cùng đáng tiếc đối với giáo lý của Đức Phật. Người tu tập chân chính và nghiêm chỉnh phải ý thức được sự kiện này: thiền định phải là một kỹ thuật luyện tập giúp người hành thiền quán thấy được bản chất của hiện thực và của chính mình hầu mang lại cho mình sự Giác Ngộ và Giải Thoát) phải tìm hiểu thật sâu xa mọi sự vật hầu nhận thấy thật minh bạch rằng chúng cũng chỉ là như thế, sự nhận thấy ấy sâu xa đến độ giúp cho tâm thức mình thực hiện được một thể dạng hội tụ (một thể dạng tập trung cao độ không còn bị phân tán bởi sự đa dạng và phức tạp của các hiện tượng) khả dĩ giúp mình có thể quán thấy sự kiện ấy thật chính xác và sinh động, và cũng đúng vào thời diểm ấy và kèm theo với sự quán thấy ấy một sự hiểu biết hiện ra. Sự kiện đó có gọi là vutthana-gamini vipassana: sự quán thấy sâu sắc và minh bạch mang lại sự hiển lộ (emergence). Khi nào đạt được cấp bậc này thì người hành thiền phải tiếp tục luyện tập thêm cho đến khi nào hoàn toàn chủ động được nó (tức hiểu được mọi sự vật chỉ là như thế một cách thật đơn giản, trực tiếp và tự nhiên), nhưng đồng thời cũng vẫn tiếp tục nhận biết được sự hội tụ giữa tâm thức mình và các sự hiểu biết đi kèm với nó (có nghĩa là quán thấy được bản chất của tất cả mọi hiện tượng chỉ là như thế và đồng thời cũng ý thức được sự vận hành của tâm thức mình giúp mình ý thức được sự kiện ấy). Sự hội tụ đó vận hành ngược chiều (đối nghịch lại) với các xu hướng tiềm ẩn hầu hóa giải chúng, và đồng thời cũng sẽ biến cải mọi sự giả định (các sự tưởng tượng, các khái niệm và các sự diễn đạt máy móc, mang tính cách công thức và sai lầm của tâm thức) trở thành sự Giác Ngộ (nhìn thấy Sự Thật). Tuy nhiên sự hội tụ đó cũng có thể trực tiếp xảy ra ở cấp bậc tâm thức nguyên sinh mà bản chất của nó cũng chỉ đơn giản là như thế, sự hội tụ đó có thể rất mạnh đến độ có thể tạo ra một thể dạng sáng suốt tuyệt đối kèm theo sự hiểu biết:
khina jati nanam hoti
Có nghĩa là "Sự hiểu biết sẽ không còn có một sự tái sinh nào nữa cả" (nguyên nghĩa tiếng Pa-li là "nhận biết được sự chiến thắng về mọi sự hình thành")
Đấy không phải là một sự giả định cũng không phải là một hình thức tạo tác tâm thần nào cả, và cũng không phải là một thứ gì đó mà người ta có thể đạt được bằng sự mong muốn của mình, mà là một thứ gì đó hiện ra chỉ là như thế, và cũng tự chính nó hoàn toàn ý thức được sự kiện ấy (trong thể dạng sáng suốt đó không còn cái tôi nào để mà ý thức về sự chấm dứt của sự tái sinh nữa: sự kiện không còn tái sinh nữa là một sự cảm nhận tự nhiên và đột khởi, tự nó cùng lúc vừa là chủ thể vừa là đối tượng. Nói cách khác là Tánh Không của Tánh Không, có nghĩa là Tánh Không tự ý thức về thể dạng Tánh Không hay là sự trống không của chính nó. Cái tôi tự xóa mất trong cái Tánh Không tuyệt đối đó, và đấy chính là sự Giải Thoát).
Những gì trên đây có thể so sánh với các cây lúa. Khi nào biết nuôi dưỡng đúng cách các cây lúa và chăm sóc chúng cẩn thận, thì kết quả - các hạt lúa - sẽ không do bất cứ một sự mong cầu nào mang lại cả: các cọng lúa tự nó đơm hạt. Nếu một người nào đó muốn có gạo ăn nhưng lại lười biếng và không lo chăm sóc ruộng lúa của mình thì người ấy dù hết lòng mong cầu cho đến chết thì cũng sẽ chẳng có được một hạt thóc nào. Điều ấy cũng có thể áp dụng vào việc thực hiện sự Giải Thoát. Thật vậy sự Giải Thoát là một thứ gì đó mà người ta không thể đạt được bằng sự mong muốn. Nếu một người nào đó mong cầu đạt được sự Giải Thoát thế nhưng lại không tu tập đúng đắn, hoặc không tu tập gì cả, mà cứ để cho ngày tháng trôi đi trong sự lười biếng cho đến khi chết, thì nhất định người ấy sẽ chẳng bao giờ thực hiện được sự Giải Thoát.

Ajahn Mun
Hoang Phong chuyển ngữ


Lời giới thiệu của người dịch

Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát). Quyển sách gồm tất cả 17 phần:

Phần 1: Tu tập là phải bảo toàn Đạo Pháp thật tinh khiết
Phần 2: Nếu muốn bước theo các vết chân của Đức Phật thì trước hết phải tự mình luyện tập trước đã và sau đó thì mới có thể luyện tập cho kẻ khác
Phần 3: Nguồn gốc mà mình được thừa hưởng sẽ là vốn liếng giúp mình tự luyện tập
Phần 4: Nền tảng căn bản của việc luyện tập
Phần 5: Nguyên nhân cội rễ của tất cả mọi thứ trong vũ trụ
Phần 6: Căn nguyên khởi động chu kỳ xoay vần của cái chết và sự tái sinh
Phần 7: Vị thế tối thượng: căn bản giúp mình bước vào con đường, thực hiện kết quả và niết-bàn
Phần 8: Thành trì bảo vệ sự tu tập của chính mình.
Phần 9: Phương pháp phát huy sự quán thấy sâu xa và loại bỏ tận gốc các uế tạp tâm thần
Phần 10: Từ bản chất tâm thức nguyên sinh trong sáng và rạng ngời thế nhưng đã bị các thứ ô nhiễm tâm thần biến thành u mê.
Phần 11: Phương cách luyện tập của một người hành thiền phải thích nghi với tính khí của người ấy.
Phần 12: Bài giảng về Mulatika
Phần 13: Chỉ có các vị visuddhi deva mới thật sự đạt được sự an bình
Phần 14: Sự bất động là điểm tột cùng của thế giới, vượt lên trên mọi sự giả định và tạo dựng tâm thần.
Phần 15: Năm cõi chúng sinh
Phần 16: Ý nghĩa trong bài thuyết giảng thứ nhất, trong bài thuyết giảng ở giữa và trong bài thuyết giảng cuối cùng.
Phần 17: Bất cứ một vị A-la-hán nào nếu muốn đạt được sự Giải Thoát bằng sự tập trung và bằng trí tuệ thì đều phải luyện tập đến chỗ tột cùng của phép tu về ba điểm.

Bài chuyển ngữ trên là phần 9 của quyển sách. Phần 10 đã được chuyển ngữ và người đọc có thể xem trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen. Ngoài ra độc giả cũng có thể tham khảo toàn bộ quyển sách này qua bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu và tiếng Pháp của bà Jeanne Schut trên các trang mạng sau đây:

- tiếng Anh: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/mun/released.html

- tiếng Pháp: http://www.dhammadelaforet.org/sommaire/mun/coeur_libere.pdf


THIỀN SƯ ACHAHN MUN (BHURIDATTA)


Mặc dầu thuở sinh tiền ngài đã sống lặng lẽ như một nhà sư vô danh trong rừng núi, nhưng có lẽ không là quá đáng khi nói rằng ngài chính là sư phụ của các thế hệ thiền sư Thái Lan trong thế kỷ này, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Ngài Ajahn Mun sinh năm 1870 ở làng Kham Bong, tỉnh Ubon Rajathani (Thái Lan) và thọ Ðại giới năm 1892. Phật giáo Thái Lan vào thời kỳ đó đại khái gồm trong hai đại phái. Phái thứ nhất tạm gọi là Cổ Sơn Môn (Porana-Customary) với hầu hết tăng chúng chấp nhận những chuyện làm thuốc, hoạ phù, bói toán, cúng kiếng để kiếm sống, và đôi khi cũng là phương tiện hoằng pháp.
Dù vẫn tự nhận tu học theo Tam Tạng Pali, nhưng chư tăng phái này thường đặt nặng về huyền thuật (Vijjagama), cái gì cũng được giải thích theo khuynh hướng thần bí, kể cả Niết Bàn. Bằng vào phương thức thầy trò kế tục nhau truyền thừa qua bao đời kiếp nên dù nội dung hành hoạt của Cổ Sơn Môn hầu hết chỉ là những cổ tục nhưng phái này đã tồn tại suốt mấy thế kỷ như một nền quốc đạo. Bên cạnh phần lớn những vị sống theo các chùa làng, chư tăng phái này cũng có nhiều vị thích sống lang thang trong núi rừng và đây chính là hạt giống khai sinh ra truyền thống ẩn lâm về sau này của Phật giáo Thái Lan. Phái Phật giáo thứ hai ở Thái Lan lúc đó là phái Dhammayutta vốn được hoàng tử Mongkut thành lập từ đầu thế kỷ 19 (1820).
Trước khi lên ngôi vua, hoàng tử này đã đi tu suốt
hai mươi bảy năm trời và vì bất mãn trước nội tình Phật giáo Thái Lan lúc đó nên ông đã tái thọ Ðại giới với chư tăng người Môn ở biên giới Miến –Thái rồi đi theo học Luật Tạng và trì hạnh Ðầu Ðà với một vị thầy cũng người Môn. Về sau, vì không muốn hoàng tử Mongkut tới lui với người Môn vốn bị xem là dân tộc thiểu số, nên anh ruột của ông là vua Rama III đã thỉnh ông về Bangkok rồi cất cho một ngôi chùa riêng. Buổi đầu hoàng tử Mongkut chỉ được một ít tăng chúng và cư sĩ đồng tình về cách nhìn đối với chư tăng cựu phái, nhưng do uy tín hoàng gia, dần dần ông có được chổ đứng riêng tư và phái Dhammayutta được khai sinh từ đó.
Lý tưởng hành đạo của Dhammayutta đại khái là y cứ Tam Tạng Pali và theo chủ trương của hoàng tử Mongkut mọi người chỉ nên trông mong giải thoát vào thời kỳ đức Phật Di Lạc.Trong thực tế, phải nhận rằng chư tăng phái Dhammayutta phần lớn thuộc giới quyền quý nên nạn kỳ thị cũng khá rõ nét. Lúc ngài Ajahn Mun đi tu thì phái Cổ Sơn Môn đang lúc suy tàn nên ngài đã xuất gia theo phái Dhammayutta, và hoà thượng bổn sư của ngài vốn là một học trò của hoàng tử Mongkut ngày trước.
Sau khi xuất gia, tự cảm thấy không thích hợp với lối tu học kinh viện của Dhammayutta, ngài xin về sống với hoà thượng Ajahn Sao Kantasilo (1861-1941) ở một ngôi chùa nhỏ ngoài ngoại ô. Ngài Ajahn Sao có một đường lối tu tập khá khắt khe, chuộng nếp sống cơ cực ngoài thiên nhiên và xem trọng công phu thiền định hơn là khả năng kiến thức uyên bác.
Ngài Ajahn Mun đã hấp thụ trọn vẹn tư tưởng hành đạo của thầy. Sau vài năm sống gần ngài Ajahn Sao như với một người thầy khai tâm trong phép tu Ðầu Ðà, ngài Ajahn Mun lại một mình lang thang suốt hai mươi năm trời qua khắp các khu rừng già dọc theo biên giới Miến Ðiện, Thái Lan, Lào và từng đặt chân lên biên giới Việt –Lào, một nơi vào thời đó vẫn còn vài bộ lạc ăn thịt người.
Ðây là một giai đoạn được xem là ly kỳ nhất trong đời hành cước của ngài Ajahn Mun mà hậu tấn khi viết lại đã gắn vào đó nhiều sự tình gay cấn nhuốm màu huyền thoại như cho ngài có những khả năng hàng long phục hổ, trừ tà tróc yêu. Nhưng chẵng sao hết, bên trong màn sương giai thoại mờ ảo đó, đạo hạnh và lý tưởng của ngài Ajahn Mun vẫn là một hiện thực chói ngời. Sau khi tham cứu qua nhiều thầy bạn gặp qua trên đường, ngài Ajahn Mun quyết định tìm về miền núi non ở trung bộ Thái Lan và ẩn tu trong một hang đá.
Chỗ sở đắc của ngài Ajahn Mun lúc này chỉ gói gọn trong vài điều mà nội dung hầu như đi ngược lại lý tưởng của phần lớn tăng chúng Thái Lan đương thời là con đường giải thoát không nằm ngoài một nội tâm thuần thục, Chánh Pháp cần được chứng nghiệm tự thân hơn là sự thọ trì từ chương và Luật Tạng chính là phương tiện tốt nhất cho công phu nội tĩnh.
Ngay sau lúc ngài Ajahn Mun quyết định tọa ẩn sơn lâm thì Phật giáo Thái Lan bước sang một giai đoạn mới. Vì muốn đối phó và ngăn chận làn sóng Cơ Ðốc giáo đang theo chân người Anh tràn vào xứ Thái, triều đình đã phát động phong trào hiện đại hoá Phật giáo với quy mô toàn quốc. Một số tăng chúng đã tham chính và vì lúc đó chỉ có chư tăng phái Dhammayutta mới có khả năng tân học nên phái này coi như trở thành quốc giáo. Năm 1928, một vị giáo phẩm của Dhammayutta vì muốn dẹp bỏ nếp sống lang thang rừng núi của các vị Ðầu Ðà miền Ðông Bắc Thái Lan nên đã trực tiếp đề nghị ngài Ajahn Mun cùng các học trò về sống ở chùa và chịu sự điều hành của chính phủ. Ngài Ajahn Mun không phản đối nhưng lặng lẽ dắt học trò về miền bắc để tiếp tục trì hạnh Ðầu Ðà không tự viện.
Giữa thập niên 1930 ngài Ajahn Mun được thỉnh về trụ trì một ngôi chùa lớn ở Chieng Mai, nhưng ngài chỉ qua đêm trong chùa và mỗi sáng lại bỏ đi đâu đó trong rừng. Trong những năm ngài sắp mất, giáo hội có những chiếu cố đối với các vị Ðầu Ðà. Ngài Ajahn Mun có trở về Ðông Bắc Thái Lan trong ít lâu, và tiếp tục giữ hạnh Ðầu Ðà cho đến lúc qua đời vào năm 1949 tại chùa Suddhavasa, tỉnh Sakon Pathon. Các thiền sư thời danh của Thái Lan sau này như ngài Ajahn Chah, ngài Ajahn Mahaboowa, Ajahn Lee, Ajahn Khamdee, Ajahn Sim, Ajahn Fuang, Ajahn Suwat,…đều là học trò đích truyền hoặc thứ truyền của ngài Ajahn Mun. Trong Who’s Who of Religion năm 1990 cũng dành cho ngài một chổ đứng trang trọng.
Một điều hết sức thú vị là đông đảo tuổi trẻ trí thức Tây Phương hôm nay đã tỏ ra rất thích thú với nếp sống Ðầu Ðà theo truyền thống ẩn lâm của Phật giáo Thái Lan mà ngài Ajahn Mun đã xác lập từ nửa thế kỷ trước. Có lẽ họ cũng biết đó là cách tốt nhất để hiểu thêm một góc cạnh khác của Phật giáo mà các đại học và thư viện Tây Phương không sao đáp ứng thỏa đáng. Một lần nào đó hãy về thăm núi rừng Chieng Mai, núi rừng Ðông Bắc Thái Lan để sáng sáng ta được nhìn thấy từng nhóm tăng sĩ Tây Phương sau buổi hoá duyên dưới làng lại toả đi các nẻo đường rừng như một cuộc về nguồn của tâm linh nhân loại.

www.luylau,com