Thông điệp nền tảng nhất của Phật Gautama là gì?




Thông điệp nền tảng nhất của Phật Gautama là không có Thượng đế, không có linh hồn... đó là tự do: tự do tuyệt đối, toàn bộ, vô điều kiện. Ông ấy không muốn cho bạn ý thức hệ, bởi vì mọi ý thức hệ đều tạo ra sự nô lệ của riêng nó. Ông ấy không muốn cho bạn tôn giáo, bởi vì tôn giáo trói buộc bạn. Đó đích xác là nghĩa tiếng Anh của từ 'tôn giáo' - điều trói buộc bạn lại. Tôn giáo là tù túng, rất tinh vi, tinh vi tới mức chừng nào bạn còn chưa rất nhận biết bạn sẽ không có khả năng thấy điều đó. Ông ấy không muốn cho bạn triết lí về cuộc sống, bởi vì bất kì triết lí nào được ai đó khác trao cho bạn đều sẽ giam cầm bạn. Bạn phải sống tương ứng theo ánh sáng riêng của mình, không theo ánh sáng của ai đó khác.
Toàn thế giới đầy những nô lệ bởi lẽ đơn giản là mọi Phật nói: Hãy là ánh sáng lên chính mình. Chừng nào bạn còn chưa tạo ra ánh sáng bên trong bản thể mình, bạn sẽ vẫn còn là nô lệ, bạn sẽ bị chi phối. Và có những tu sĩ xảo quyệt, tinh ranh, rất láu cá, rất phàm tục; và họ biết, họ rất có kinh nghiệm trong việc tạo ra tù túng mới cho bạn. Nếu bạn thoát khỏi nhà tù này, họ lập tức tạo ra nhà tù khác. Họ rất láu cá với lời. Họ cứ diễn giải lời nói theo cách tinh vi mà bạn sẽ không bao giờ có khả năng hiểu được, làm sao những lời này của chư phật lại bị thao túng, bóp méo. Lời đáng được ngụ ý cho bạn tự do đã bị làm thành xiềng xích.
Nhưng con người rất vô nhận biết; do đó con người cứ còn là nạn nhân - nạn nhân của đủ mọi loại khai thác tâm lí.
Phật dạy bạn tự do là mục đích tối thượng, summum bonum, điều tốt lành nhất. Mọi giá trị khác đều là sản phẩm phụ của tự do; chúng theo sau tự do như hệ quả.
Jesus nói: Trước hết ông hãy tìm vương quốc của Thượng đế, thế rồi tất cả các cái khác sẽ được thêm vào cho ông. Phật sẽ không nói điều đó. Ông ấy sẽ nói: Trước hết ông hãy toàn bộ và tự do tuyệt đối, và thế rồi tất cả các thứ khác sẽ được thêm vào ông. Nếu ông tìm Thượng đế ông lại đi tìm nhà tù mới, có thể tốt hơn nhà tù cũ, có thể bằng vàng, rất quí - nhưng nhà tù vẫn là nhà tù thôi. Dù xiềng xích của bạn được làm bằng sắt hay vàng, điều đó chẳng tạo ra khác biệt chút nào. Thực tế, nếu xiềng xích được làm bằng vàng thì sẽ khó thoát khỏi chúng hơn nhiều bởi vì bạn sẽ trở nên bị gắn bó. Bạn sẽ nghĩ xiềng xích đó không phải là xiềng xích mà là đồ trang sức. Bạn sẽ bảo vệ chúng, bạn sẽ canh giữ chúng - ai đó có thể đánh cắp chúng từ bạn!
Tự do là hương thơm của toàn thể thông điệp của Phật. Không người chứng ngộ nào khác đã từng nhấn mạnh tới tự do nhiều như vậy. Tại sao Phật nhấn mạnh vào tự do nhiều thế? - bởi lẽ đơn giản là ông ấy đã thấy tất cả các lí tưởng khác đều bị đổi thành tù túng. Ông ấy đã thấy tất cả những triết lí đẹp đẽ đều bị các tu sĩ đầu độc. Cảnh giác với tu sĩ!
Phật không phải là tu sĩ, mà Jesus cũng không, Mahavira cũng không. Không người chứng ngộ nào là tu sĩ cả. Tu sĩ sống theo lời của người chứng ngộ và khai thác những người chưa chứng ngộ. Ông ta chắc chắn láu cá nhưng không khôn ngoan, thông thái nhưng không chứng ngộ. Ông ta thành công trong thao túng bạn bởi vì bạn vô ý thức.
Do đó, điều thứ hai Phật nhấn mạnh là thiền, nhận biết. Tự do có thể tới chỉ qua việc ngày càng nhiều nhận biết hơn. Với tự do ông ấy không ngụ ý hiện tượng xã hội nào hay thay đổi chính trị nào. Có những người... Tôi đã bắt gặp những cuốn sách do người cộng sản, người Mác xít, người xã hội viết ra, những người cố gắng chứng minh rằng tự do của Phật nghĩa là chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, rằng tự do của ông ấy nghĩa là cách mạng xã hội, cách mạng chính trị. Điều đó là hoàn toàn vô nghĩa! Phật chẳng liên quan gì tới thế giới bên ngoài; mối quan tâm của ông ấy là nội tâm của bạn. Ông ấy muốn thay đổi vô ý thức của bạn thành có ý thức, ông ấy muốn thay đổi bóng tối của bạn thành ánh sáng, ông ấy muốn thay đổi hữu tử của bạn thành cái bất tử.
Ông ấy thực sự làm công việc của nhà tiên tri của Upanishads, người đã cầu nguyện Thượng đế, "asato ma sadgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, xin đem chúng con xa khỏi cái giả dối, khỏi cái không thật, để tới chân lí, tamaso ma jyotirgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, hãy đưa chúng con xa khỏi bóng tối vào trong ánh sáng. Mrityor ma amritamgamay. Hỡi Thượng đế, hỡi Trời, hãy đưa chúng con xa khỏi cái chết tới cuộc sống vĩnh hằng." Nhưng họ đã cầu nguyện Thượng đế.
Phật nói: Không lời cầu nguyện nào sẽ có ích. Chừng nào bạn còn chưa làm điều gì đó, lời cầu nguyện của bạn là bất lực. Không cần cầu nguyện, nhưng có nhu cầu lớn để thiền. Tôn giáo của ông ấy không phải là tôn giáo của lời cầu nguyện. Tôn giáo của ông ấy là rất khoa học theo nghĩa ông ấy không giả định bất kì niềm tin nào. Bạn không cần tin vào Thượng đế, bạn không cần tin vào kiếp sau. Ông ấy nói khi bạn có thể kinh nghiệm, thế thì sao lại tin? Mọi niềm tin chung cuộc đều thu bạn thành nô lệ.
Phật chống lại mọi loại tin và không tin. Ông ấy là người theo thuyết bất khả tri. Ông ấy nói cứ còn cởi mở đi; nếu bạn tin bạn trở nên bị đóng. Người Hindu bị đóng, người Mô ha mét giáo bị đóng, người Ki tô giáo bị đóng: họ đã kết luận rồi. Họ đã chấp nhận niềm tin nào đó là đúng mà không kinh nghiệm nó. Đây là không trung thực! Và những người này được coi là người tôn giáo đấy. Họ thậm chí không đích thực, họ thậm chí không thật thà - nói gì về tính tôn giáo của họ? Từ chính lúc ban đầu họ đã không trung thực rồi; đức tin làm cho bạn thành không trung thực.
Chính quá trình tin là tin vào cái gì đó mà bạn đã không kinh nghiệm theo cách riêng của mình. Làm sao bạn có thể tin được nếu bạn chân thành? Nếu việc tìm kiếm chân lí của bạn là đích thực bạn không thể tin được; bạn không thể không tin được nữa. Bạn không thể nói có Thượng đế, bạn không thể nói không có Thượng đế. Bạn chỉ có thể nói, "Tôi không biết và tôi đang tìm và tôi đang kiếm và tôi đang kinh nghiệm và tôi đang thử kinh nghiệm."
Đó là cách thức của thiền.
Lời cầu nguyện yêu cầu tin như một giả định trước; không có tin thì không có khả năng nào cho lời cầu nguyện. Bạn sẽ cầu nguyện ai? Bạn sẽ gửi lời cầu nguyện của mình tới ai? - tới Thượng đế nào đó mà bạn đã chấp nhận bởi vì điều đó đã được bảo cho bạn từ thời ấu thơ, bạn đã bị thôi miên.
Mọi niềm tin đều không là gì ngoài thôi miên. Người này bị thôi miên là người Hindu, người kia bị thôi miên là người Mô ha mét giáo; cả hai đều sống trong một loại giấc ngủ say. Thôi miên nghĩa là ngủ; chính từ này nghĩa là ngủ. Bạn đã bị cho nhiều chất độc thế, dần dần, dần dần qua niềm tin mà bạn đã rơi vào giấc ngủ. Bạn không còn nhận biết điều mình đang làm, tại sao mình làm. Tại sao bạn đi đến đền chùa? Tại sao bạn cúi lạy tượng đá? Tại sao bạn trích dẫn cái gì đó vô nghĩa? Tại sao bạn đi tới Kaaba hay Kashi hay Girnar? Để làm gì? Có cái gì đó tiên nghiệm. Bạn đã tin vào điều tôn giáo là gì, mà không kinh nghiệm, không truy tìm.
Đây là cách thức của kẻ hèn nhát, đây là cách thức của người sống dở chết dở.
Thiền yêu cầu dũng cảm. Nó yêu cầu tính toàn vẹn, chân thành, kính trọng với bản thể riêng của bạn. Ít nhất đừng tự lừa dối mình.
Phật nói: Để kinh nghiệm của ông quyết định. Nếu điều này được hiểu bạn nhất định đi tới thiền thay vì lời cầu nguyện. Thế thì thiền sẽ đem lại lời cầu nguyện của riêng nó - tính cầu nguyện thì đúng hơn. Bạn sẽ không cầu nguyện nhưng bạn sẽ trong lời cầu nguyện, bởi vì bạn càng trở nên im lặng hơn, bạn sẽ càng trở nên tĩnh lặng hơn. Bạn càng kinh nghiệm sự hiện diện, sự hiện diện bí ẩn càng tràn ngập mọi thứ, thấm vào mọi thứ. Bạn có thể thích gọi nó là Thượng đế, bạn có thể không thích gọi nó là Thượng đế; chẳng thành vấn đề bạn gọi nó là gì. Bạn có thể không thích gọi nó là cái gì cả; bạn có thể im lặng về nó, bởi vì đó là thứ thích hợp nhất để làm. Nó không thể được đặt vào lời nào; không lời nào là đủ thích hợp để diễn đạt nó.
Nhưng Phật đã không được ai nghe. Nhân loại vẫn còn trong cách cũ kĩ của nó, như người sống dở chết dở, theo cách ngủ. Nó vẫn còn bị thôi miên, vô ý thức.
Howard Rabinowitz, một anh chàng thanh niên lực lưỡng, như đá granit, cực kì hung hăng, đang uống rượu whisky trong quán rượu thì anh ta nghe công bố về cuộc chiến sáu ngày qua radio. Tràn đầy xúc động và lên cơn sốt Do Thái, anh ta chạy xô ra sân bay và đáp chuyến bay đầu tiên tới Israel nơi anh ta lập tức gia nhập quân đội.
Nhưng sự đón tiếp anh ta tại căn cứ quân sự lại khá lạnh nhạt. Anh ta không đích xác bị lính Israel né tránh, nhưng họ cũng không làm theo cách của họ để đón chào anh ta.
"Nghe đây, có chuyện gì với người của ông thế?" anh ta phàn nàn với viên trung sĩ. "Tôi từ nửa vòng thế giới tới đây để giúp các anh và tôi thực tế bị bỏ qua. Một người Mĩ phải làm gì để được chấp nhận vào quân đội này?" $ketdoan $modoan
Viên trung sĩ dướn mắt nhìn anh thanh niên cơ bắp cuồn cuộn, bằng cách nào đó lén lút đưa mắt nhìn để cho anh ta không thể bị nghe lỏm, và thế rồi, trong giọng gần như thì thầm, anh ta nói, "Bí mật và không được ghi chép gì, nếu anh thực sự muốn là người của chúng tôi, có ba điều anh phải làm."
"Anh nói tên chúng ra đi," Rabinowitz nói.
"Thứ nhất," viên trung sĩ giải thích, "Anh phải uống hết một phần tư cốc rượu mạnh nhất mà không dừng hơi để thở. Thứ hai, anh phải giết một sĩ quan quân đội A rập. Thứ ba, anh phải làm tình với một người đẹp Israel."
Thế là Howard Rabinowitz nốc một hơi hết cả cốc phần tư lít rượu Mount Carmel không dừng giữa chừng.
"Bây giờ,"anh ta hỏi, "tôi có thể kiếm đâu ra viên sĩ quan A rập?"
"Ngang qua kênh đào Suez ấy," viên trung sĩ nói. "Tôi sợ anh sẽ phải bơi hai lần - tức là nếu anh vẫn còn sống."
"Tôi sẽ sống mà," người Mĩ hứa và anh ta lảo đảo bước đi. "Đồ chết tiệt, tôi là người to lớn nhất, hung bạo nhất, thô bạo nhất ở bờ Đông. Cuộc phiêu lưu nhỏ này thấm gì?"
Vài giờ sau anh ta quay về, ướt đẫm từ việc bơi trở về, quần áo rách mướp còn mặt anh ta bị trầy xước và chảy máu.
"Được rồi, tôi chăm nom tay sĩ quan A rập kia," anh ta gầm lên. "Bây giờ, người đẹp Israel ông muốn giết ở đâu?"
Đó đích xác là tình huống của nhân loại. Bạn không biết mình là ai, bạn không biết mình đang làm gì, bạn không biết tại sao mình làm nó ngay chỗ đầu tiên. Bạn không biết, cho dù bạn thành công, vấn đề tất cả là gì. Nhưng dầu vậy bạn cứ làm cái gì đó. Nó giữ bạn bị giam cầm và giữ bạn vô nhận biết về tính vô nhận biết của mình.
Mọi nghề nghiệp của bạn về căn bản không là gì ngoài nỗ lực để vẫn còn vô nhận biết về tính vô nhận biết của bạn - bởi vì điều đó gây động chạm tự ái. Sẽ là bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ sống dở chết dở," bị động chạm khi biết rằng "Mình là kẻ nô lệ." Cho nên bạn cứ ba hoa về sự nô lệ của mình cứ dường như nó là cái gì đó rất quí và có giá trị. Bạn cứ ba hoa về việc là người Ấn Độ hay người Pakistan hay người Israel hay người Đức hay người Mĩ. Bạn cứ ba hoa về việc là người Hindu, người Mô ha mét giáo, người Ki tô giáo, người Jaina giáo - và bạn không biết bạn đang ba hoa về nhà tù của mình!
Cứ dường như hai tù nhân đang nói: "Nhà tù của tôi tốt hơn nhà tù của ông. Nhìn cờ kia kìa! Nhà tù của tôi có cờ tốt nhất trên thế giới, cột cờ cao nhất. Và chớ có nói lời nào chống lại nhà tù của tôi đấy; bằng không ông sẽ khổ vì điều đó, ông sẽ phải trả giá cho điều đó."
Quốc gia của tôi, đất nước của tôi, nhà thờ của tôi, tôn giáo của tôi cao hơn tôn giáo của ông, cao hơn nhà thờ của ông, cao hơn quốc gia của ông - và chúng ta đều đang ba hoa về nhà tù của mình. Điều này hoàn toàn ngu xuẩn. Nhưng sao chúng ta cứ làm nó? - bởi vì đó là cách duy nhất để giữ thể diện của chúng ta.
Nếu chúng ta thử để thấy ra vấn đề, rằng tất cả những điều này đều là nhà tù, làm sao chúng ta có thể tránh việc biết rằng chúng ta là tù nhân - không phải một mà là nhiều nhà tù, nhà tù bên trong nhà tù? Và điều đó sẽ phá huỷ bản ngã của chúng ta. Nó giúp cho bản ngã chúng ta rất nhiều là "Chúng ta là quốc gia vĩ đại," rằng "Lịch sử của chúng đầy những dũng cảm," rằng "Chúng ta đã tạo ra những chiến binh vĩ đại nhất"... hay những thánh nhân vĩ đại nhất, hay bất kì cái gì có đó. "Chúng ta đã tạo ra xã hội tôn giáo nhất trên thế giới," hay xã hội dân chủ nhất hay xã hội cộng sản nhất. Điều này giúp chúng ta bảo vệ bản ngã của mình. Chúng ta thấy theo đủ mọi cách các phương pháp và phương tiện, phương cách và chiến lược để cho bản ngã chúng ta vẫn còn không bị động chạm.
Và bản ngã là hiện tượng giả tạo nhất trong sự tồn tại; không có gì giả tạo hơn bản ngã. Nó không có bản chất. Nó là quả bóng đầy khí nóng - hay có thể chẳng có bóng nào cả, chỉ khí nóng thôi! Nhưng chúng ta đang sống theo chỉ đạo của thượng đế giả này, bản ngã. Và có các tu sĩ giúp chúng ta, người cho chúng ta những chiến lược mới, cách diễn giải mới. Khi thời gian thay đổi, các tu sĩ sẵn sàng cho chúng ta cách diễn giải mới.
Một đứa bé trong trường ngày chủ nhật ngẩn người ra khi linh mục nói rằng Thượng đế làm ra mọi thứ. Đứa trẻ trông ngẩn ra, gần như một câu hỏi trong mắt nó.
Linh mục hỏi nó, "Có chuyện gì thế, Johnny? Con trông ngẩn người ra."
Johnny nói, "Dạ vâng. Bác nói mọi thứ - bác có thực ngụ ý mọi thứ không? Thế thì đâu là tài liệu tham khảo rằng Thượng đế đã làm ra đường ray tầu hoả? Con chưa bao giờ bắt gặp điều đó."
Và linh mục nói, "Đúng rồi, con phải đã bỏ qua điều đó. Có sách tham khảo đấy. Trong Kinh Thánh có nói rằng Thượng đế làm ra mọi thứ dần dần; kể cả đường ray tầu hoả nữa!"
Và không chỉ có việc họ đang lừa trẻ nhỏ đâu; họ làm cùng điều đó với bạn đấy.
"Giáo sĩ ơi," người cha lo âu nói, "tôi mong ông sẽ nói cho con trai tôi. Nó đây này, tuổi mười ba, và mọi thứ nó nghĩ tới chỉ toàn về bóng chày."
Giáo sĩ thở dài với bản thân mình. "Với bao nhiêu đứa trẻ phạm tội lâm vào rắc rối," ông ta nghĩ, "đây quả thực là vấn đề nhỏ."
"Tôi tiếc là làm cho ông thất vọng," ông ta nói, vừa kìm lại ham muốn bầy tỏ bực mình của mình, "nhưng tôi không thể trách móc con ông về điều gì đó mà chúng ta, người Do Thái đã từng thực hành trong hàng nghìn năm rồi. Thực tế, có nhiều tham chiếu tới bóng chày trong Kinh Thánh."
"Ông có nghiêm chỉnh không đấy?" người cha hỏi một cách hoài nghi. "Chúng là gì?"
"Đây này, chẳng hạn, ông sẽ nhớ ngay rằng Eve ăn trộm đầu tiên và Adam ăn trộm thứ hai; Gideon gõ lách cách bình nước; Goliath bị David đẩy ra; và đứa con hoang toàng làm cú đánh bóng chày!"
Tu sĩ là những người tinh ranh nhất trên thế giới.
Ở Baltimore, vào lúc chuyển thế kỉ, một maggid lưu động, hay nhà thuyết giảng, đi tìm khắp thế giới một nhà tiên tri già với bộ râu bạc oai vệ và chảy dài, mặc áo choàng trắng như tuyết, nhà tiên tri này được mời nói chuyện ở ngôi đền Sanhedrin. Viên giáo sĩ thường xuyên của giáo đường bằng cách nào đó vẫn lo sợ về quan điểm cực chính thống của ông già này, nhưng ông ta đã tới do được giới thiệu nhiều. Nỗi sợ của giáo sĩ, té ra là cũng được biện minh. Ông maggid này hô hào giáo đoàn bằng buổi thuyết giảng nóng bỏng đáng phải ghi công cho vị thuyết giảng Baptist chính thống theo Kinh Thánh quá chừng. Khi giáo trưởng đáng kính sắp kết thúc buổi thuyết giảng của mình ông ta nói to, "Và tôi nói với các vị, Ngày phán xử cuối cùng trong tầm tay rồi, và chừng nào các vị còn chưa sống nghiêm túc theo luật được trao cho chúng ta từ bản thân Mose, sẽ có khóc lóc và gào thét và nghiến răng!"
Một bà già ngồi ngay hàng trước, hoảng sợ với cách hiểu nhanh của mình, kêu lên, "Nhưng, thưa ngài, tôi không có răng!"
"Thưa bà," nhà thuyết giảng gầm lên như sấm, "răng sẽ được cung cấp!"
Phật không phải là tu sĩ, ông ấy không phải là nhà tiên tri, ông ấy là một loại người hoàn toàn khác. Ông ấy là người đã thức tỉnh, ông ấy đã đi tới biết bản thân mình. Ông ấy không phải là hoá thân của Thượng đế - ông ấy không có tuyên bố nào như thế. Ông ấy không phải là sứ giả đặc biệt của Thượng đế; ông ấy không có bản ngã nào như thế. Ông ấy không tuyên bố rằng "Ta là con duy nhất." Tất cả những điều này có vẻ ngớ ngẩn nếu bạn nghĩ về Phật. Ông ấy rất đơn giản và vậy mà thông điệp của ông ấy lại thực tế nhất, khoa học nhất, xuyên thấu nhất.
Ông ấy nói, "Ta đã vô ý thức như các ông; bây giờ ta đã trở nên có ý thức và mọi nỗi sợ và nỗi buồn của ta đã biến mất. Một ngày nào đó ta đã giống các ông, một ngày nào đó các ông có thể giống ta; không có sự khác biệt về chất giữa chúng ta. Ta đã thức tỉnh, các ông còn ngủ; đó là khác biệt duy nhất. Ta không phải là phi thường, ta bình thường như các ông thôi. Điều duy nhất đã xảy ra cho ta là ở chỗ ta đã mở mắt ra còn các ông vẫn nhắm mắt. Mở mắt ra đi và nhìn bản thân các ông!"

Trích 'Dhammapada - Con đường của Phật (Tập 10, Chương 3: Thiền yêu cầu dũng cảm)' - Osho